top of page

KHÔNG CÒN GÌ TRÔNG CẬY NHƯNG VẪN CẬY TRÔNG

  • Ảnh của tác giả: Văn phòng nhà thờ Chính toà Sài Gòn
    Văn phòng nhà thờ Chính toà Sài Gòn
  • 21 thg 5
  • 7 phút đọc

Bởi vậy, vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Ápraham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hóa có.

Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Sara đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính.

Nhưng khi viết ông được kể là người công chính, thì không phải chỉ nói về ông, mà còn nói về cả chúng ta nữa: chúng ta sẽ được kể là công chính, vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết; Đức Giêsu chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính. (Rm 4,16-25)


Đoạn thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma chúng ta vừa nghe là một món quà lớn, vì nó khiến cho chúng ta hiểu rằng tổ phụ Ápraham không chỉ là cha chúng ta trong lòng tin mà còn là cha chúng ta trong niềm hy vọng nữa; không phải chỉ là cha trong lòng tin nhưng còn là cha trong niềm hy vọng, vì các biến cố trong cuộc đời tổ phụ cũng loan báo sự Phục Sinh và cuộc sống mới chiến thắng sự dữ và chính cái chết nữa.

Bản văn nói rằng Ápraham tin nơi Thiên Chúa "là Đấng ban sự sống cho người đã chết và gọi vào sự hiện hữu các vật không hiện hữu” (Rm 4,17), và văn bản xác định: "Ông không chao đảo trong niềm tin, mặc dù thấy thân xác mình và cung lòng bà Sara đã như chết rồi" (Rm 4,19). Đó cũng chính là kinh nghiệm chúng ta được mời gọi sống.

Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải cho Ápraham là Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa giải thoát khỏi sự tuyệt vọng và cái chết, Thiên Chúa kêu gọi vào sự sống. Trong câu chuyện của Ápraham tất cả đều trở thành một thánh thi chúc tụng Thiên Chúa, là Đấng giải thoát và tái sinh, tất cả trở thành ngôn sứ. Và nó trở thành cho chúng ta, giờ đây chúng ta nhận biết và cử hành việc thành toàn của tất cả mầu nhiệm Phục Sinh. Thật thế, Thiên Chúa "đã cho Đức Giêsu sống lại từ những kẻ đã chết" (Rm 4,24), vì thế, trong Ngài cả chúng ta cũng từ cái chết bước qua sự sống. Và khi đó Ápraham thực sự có thể nói "là cha của nhiều dân tộc", trong nghĩa ông rạng ngời lên như lời loan báo một nhân loại mới, đã được Chúa Kitô cứu chuộc khỏi tội lỗi và cái chết, và đưa vào trong vòng tay tình yêu của Thiên Chúa, một lần cho luôn mãi.

Tới đây thánh Phaolô giúp chúng ta minh xác mối dây ràng buộc chặt chẽ giữa lòng tin và niềm hy vọng. Ngài khẳng định rằng tổ phụ Ápraham “trong niềm hy vọng ông vẫn tin dù không còn gì để trông cậy" (Rm 4,18).

Niềm hy vọng của chúng ta không dựa trên các lý luận, sự lo xa và sự tin tưởng của con người; niềm hy vọng xuất hiện ở nơi không còn hy vọng nữa, ở nơi không còn gì để hy vọng, như xảy ra cho chính tổ phụ Ápraham, trước cái chết gần kề của ông và trước việc bà Sara vợ của ông bị son sẻ. Đối với họ đó đã là kết thúc, họ không thể có con và trong tình trạng ấy, Ápraham đã tin và đã hy vọng ngay cả khi không còn gì hy vọng. Điều này thật lớn lao! Niềm hy vọng lớn lao đâm rễ trong đức tin, và chính vì thế nó có khả năng đi xa hơn mọi hy vọng. Phải, vì nó không dựa trên lời nói của chúng ta, nhưng dựa trên Lời của Thiên Chúa. Cả trong nghĩa này nữa khi đó chúng ta được mời gọi noi gương tổ phụ Ápraham, là người trước sự hiển nhiên của một thực tại xem ra phải chết, ông vẫn tín thác nơi Thiên Chúa, "hoàn toàn xác tín rằng những gì Chúa đã hứa Chúa cũng có thể đưa tới chỗ thành toàn" (Rm 4,21).

Tôi muốn hỏi anh chị em một câu: Tất cả chúng ta đây, chúng ta có xác tín về điều này không? Chúng ta có xác tín rằng Thiên Chúa yêu chúng ta, và tất cả những gì Ngài đã hứa với chúng ta thì Ngài sẵn sàng đưa nó tới chỗ thành toàn không? "Nhưng mà thưa cha, chúng con phải trả bao nhiêu tiền cho điều đó?" Chúa trả lời: Có một giá: đó là hãy mở rộng con tim. Hãy rộng mở con tim anh chị em, và sức mạnh này của Thiên Chúa sẽ làm cho nó tiến tới, sẽ làm các điều kỳ diệu, và sẽ dậy cho anh chị em biết niềm hy vọng là gì. Đó là giá trả duy nhất: rộng mở con tim cho đức tin và Chúa sẽ làm mọi sự còn lại.

Đó chính là sự mâu thuẫn đồng thời là yếu tố mạnh mẽ nhất, cao cả nhất mà trên bình diện nhân loại xem ra không chắc chắn và không thể dự kiến, nhưng không suy giảm, kể cả trước cái chết, khi Đấng đã hứa là Thiên Chúa của sự Phục Sinh và sự sống. Đây là điều không phải bất cứ ai cũng hứa được đâu, không! Người hứa là Thiên Chúa của sự Phục Sinh và sự sống.

Anh chị em rất thân mến, hôm nay chúng ta hãy xin Chúa ơn được xây dựng, không phải trên các an toàn, các khả năng của chúng ta, nhưng trên niềm hy vọng vọt lên từ lời hứa của Thiên Chúa, như là các con cái đích thật của tổ phụ Ápraham. Những gì Thiên Chúa hứa, Ngài đưa tới chỗ thành toàn điều Ngài hứa. Ngài không bao giờ nuốt lời. Và khi đó cuộc sống chúng ta sẽ có được một ánh sáng mới, trong ý thức rằng Đấng đã cho Con của Ngài sống lại cũng sẽ cho chúng ta phục sinh, và thực sự khiến cho chúng ta trở thành một với Ngài, cùng với tất cả các anh chị em khác trong đức tin. Chúng ta tất cả đều tin. Hôm nay chúng ta tất cả ở quảng trường này, chúng ta chúc tụng Chúa, chúng ta sẽ hát Kinh Lạy Cha, rồi lãnh nhận phép lành... Tuy điều này qua đi, nhưng nó cũng là một lời hứa của hy vọng. Nếu hôm nay chúng ta có con tim rộng mở, tôi bảo đảm với anh chị em là tất cả chúng ta sẽ gặp nhau trong quảng trường trên Trời luôn mãi, không bao giờ tàn. Và đó là lời hứa của Thiên Chúa. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta, nếu chúng ta rộng mở tâm hồn mình.


Buổi tiếp kiến chung, ngày 29.03.2017


 (Trích từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Niềm Hy Vọng Kitô Giáo; chuyển ngữ Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.)

 

Áp dụng:

  • Khi cuộc đời cho ta chén đắng, không còn gì để trông cậy, tôi có vẫn trông cậy vào Chúa không?

  • Chúng ta có xác tín rằng Thiên Chúa yêu chúng ta, và tất cả những gì Ngài đã hứa với chúng ta thì Ngài sẵn sàng đưa nó tới chỗ thành toàn không?

 

 Cầu nguyện:

Thánh vịnh 146 - Phúc thay người trông cậy Chúa

Halêluia. 

Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!

Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,

sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.

 

Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,

nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.

Họ tắt hơi là trở về cát bụi,

dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.

 

Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ

và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.

Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi

cùng muôn loài trong đó.

 

Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời,

xử công minh cho người bị áp bức,

ban lương thực cho kẻ đói ăn.

 

Chúa giải phóng những ai tù tội,

Chúa mở mắt cho kẻ mù lòa.

Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,

Chúa yêu chuộng những người công chính.

 

Chúa phù trợ những khách ngoại kiều,

Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,

nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.

 

Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,

Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.

 

Lời nguyện

 Lạy Chúa là Đấng tạo thành trời đất cùng muôn loài muôn vật, chúng con chỉ tựa nương vào Chúa mà thôi. Chúng con xác tín rằng: Đức Kitô vẫn tiếp tục công trình của Chúa, là bênh vực những kẻ nghèo hèn: chính Người sẽ cứu độ chúng con. Xin cho chúng con luôn cậy trông vào Chúa ngay cả khi không còn gì để trông cậy.

  

 


bottom of page