Đức Chúa phán thế này: “Người ta nghe có tiếng khóc ở Rama, tiếng khóc than ai oán: Đó là tiếng bà Rakhen khóc thương con cái mình, bà không muốn được an ủi về những người con ấy, vì nay chúng chẳng còn. Đức Chúa phán thế này: Thôi đừng than khóc nữa, hãy lau khô dòng lệ trên đôi mắt, vì công lao của ngươi sẽ được đền bù: - sấm ngôn của Đức Chúa - chúng sẽ rời bỏ đất quân thù trở về. Như thế, tương lai ngươi sẽ tràn trề hy vọng: - sấm ngôn của Đức Chúa - con cái ngươi sẽ trở về bờ cõi mình. (Gr 31, 15-17)
Đây là một gương mặt phụ nữ nói với chúng ta về niềm hy vọng được sống trong tiếng khóc. Niềm hy vọng sống trong tiếng khóc. Đó là bà Rakhen, vợ của tổ phụ Giacóp và là mẹ của Giuse và Bengiamin, người đã chết khi cho người con thứ hai là Bengiamin chào đời, như trong sách Sáng Thế đã kể lại. Ngôn sứ Giêrêmia quy chiếu bà Rakhen và hướng tới dân Israel đang sống kiếp lưu đày bên Babylon, để an ủi họ với các lời đầy cảm động và thi vị như sau: “Người ta nghe có tiếng khóc ở Rama, tiếng khóc than ai oán: Đó là tiếng bà Rakhen khóc thương con mình, bà không muốn được an ủi về những người con ấy, vì nay chúng chẳng còn” (Gr 31,15)
Trong các câu này ngôn sứ Giêrêmia giới thiệu người phụ nữ này của dân mình, bà tổ phụ vĩ đại của chi tộc ông, trong một thực tại của đau đớn khóc than, nhưng đồng thời với một viễn tượng của sự sống không được nghĩ tới.
Bà Rakhen là người, trong trình thuật sách Sáng Thế, đã chấp nhận chết để cho con được sống, giờ đây được ngôn sứ trình bầy như sống tại Rama, là nơi các người Do Thái bị đi đầy tụ họp, khóc thương con cái, trong một nghĩa nào đó cũng đã chết khi bị đi đầy; các con cái như chính bà nói “không còn nữa”, đã biến mất luôn mãi.
Và chính vì thế mà bà không muốn được an ủi. Sự từ chối này diễn tả nỗi đớn đau sâu đậm và sự cay đắng trong tiếng khóc của bà. Trước thảm cảnh mất con cái, một bà mẹ không thể chấp nhận các lời nói hay các cử chỉ an ủi luôn luôn không thích hợp, và không bao giờ có thể làm vơi nhẹ nỗi đau đớn của một vết thương không thể và không muốn được khép lại. Một sự đau đớn cân xứng với tình yêu thương.
Mọi bà mẹ đều biết tất cả những điều này. Và ngày nay có biết bao bà mẹ than khóc, và không an tâm khi mất một người con, không thể an ủi trước cái chết không chấp nhận được. Bà Rakhen mang trong mình nỗi đớn đau của tất cả mọi bà mẹ trên thế giới, thuộc mọi thời đại, và nước mắt của mọi người than khóc các mất mát không sửa chữa được.
Sự khước từ này của bà Rakhen không muốn được an ủi cũng dạy cho chúng ta biết rằng cần phải có biết bao tế nhị trước nỗi khổ đau của người khác. Để nói về niềm hy vọng với ai bị tuyệt vọng, cần phải chia sẻ sự tuyệt vọng của họ; để lau khô nước mắt cho gương mặt của ai khổ đau, cần phải hiệp nhất với tiếng khóc của họ. Chỉ như thế các lời nói của chúng ta mới thực sự có khả năng trao ban một chút hy vọng. Và nếu tôi không thể nói các lời như thế với tiếng khóc, với sự đau đớn, tốt hơn là với sự thinh lặng; sự vuốt ve, cử chỉ và không lời nói.
Với sự tế nhị và tình yêu thương của Ngài, Thiên Chúa trả lời cho tiếng khóc của bà Rakhen với các lời chân thật, chứ không phải giả dối. Bản văn của ngôn sứ Giêrêmia tiếp tục như sau: Trả lời cho tiếng khóc Chúa nói: “Đức Chúa phán thế này: ‘Thôi đừng than khóc nữa, hay kau khô dòng lệ trên đôi mắt, vì công lao của ngươi sẽ được đền bù: - sấm ngôn của Đức Chúa – chúng sẽ rời bỏ đất quân thù trở về. Như thế, tương lai ngươi sẽ tràn trề hy vọng: - sấm ngôn của Đức Chúa – con cái ngươi sẽ trở về bờ cõi mình’”(Gr 31, 16-17).
Chính nhờ tiếng khóc của bà mẹ mà còn có hy vọng cho con cái sẽ sống trở lại. Người phụ nữ này đã chấp nhận chết, trong lúc sinh con, để cho đứa con có thể sống, với tiếng khóc của bà giờ đây là nguyên lý của cuộc sống mới cho các con cái bị lưu đày, bị tù, xa quê hương. Chúa trả lời cho nỗi đớn đau và cho tiếng khóc của bà Rakhen với một lời hứa giờ đây có thể là lý do của sự an ủi đích thật: dân chúng sẽ có thể từ nơi lưu đày trở về, và sống trong đức tin và tự do tương quan của mình với Thiên Chúa. Các giọt nước mắt đã sinh ra niềm hy vọng. Và đây không phải là điều dễ dàng để hiểu, nhưng có thật. Biết bao lần trong cuộc sống chúng ta, các giọt nước mắt gieo vãi hy vọng; chúng là các hạt giống của niềm hy vọng.
Như chúng ta biết, văn bản này của ngôn sứ Giêrêmia đã được thánh sử Mátthêu áp dụng cho vụ tàn sát các hài nhi vô tội (x. 2, 16-18). Đây là một văn bản đặt để chúng ta trước thảm cảnh giết những người không được bênh đỡ, trước sự kinh hoàng của quyền bính khinh rẻ và hủy bỏ sự sống. Các trẻ em Bêlem đã chết vì Chúa Giêsu. Và tới lượt Ngài, Chiên Con vô tội, sẽ chết cho tất cả chúng ta. Con Thiên Chúa đã bước vào trong nỗi đớn đau của loài người. Đừng quên điều này. Khi có ai đó nói với tôi và đưa ra cho tôi các câu hỏi khó, chẳng hạn: “Xin cha nói cho con biết tại sao các trẻ em lại đau khổ?”, thật tôi không biết trả lời làm sao. Tôi chỉ nói: “Bạn hãy nhìn Đấng bị đóng đinh; Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con của Ngài. Người đã đau khổ, và có lẽ bạn sẽ tìm thấy ở đó một câu trả lời.” (Đức Giáo Hoàng đã chỉ ngón tay lên đầu mình và nói rằng), sẽ không có các câu trả lời từ trong đầu chúng ta. Nhưng chỉ khi nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã ban con mình, Đấng dâng hiến sự sống Người cho chúng ta, mới có thể chỉ cho chúng ta con đường của sự ủi an. Vì thế chúng ta nói rằng Con Thiên Chúa đã bước vào trong nỗi khổ đau của loài người: đã chia sẻ nó và đã chấp nhận cái chết. Lời của Người một cách vĩnh viễn là Lời của ủi an, vì nó nảy sinh từ tiếng khóc.
Và trên thập giá chính Ngài, một Người Con hấp hối, sẽ trao ban một sự phong phú mới cho Mẹ mình, khi tín thác Mẹ cho môn đệ Gioan và khiến cho Mẹ trở thành Mẹ của các tín hữu. Cái chết xem ra đã thắng, và như thế lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia đạt tới sự thành toàn. Cũng như nước mắt của bà Rakhen, cả nước mắt của Mẹ Maria cũng đã sinh ra niềm hy vọng và sự sống mới.
Buổi tiếp kiến chung, ngày 04.01.2017
Suy tư: Khi đối diện với những đau khổ của người khác: khi họ mất người thân yêu, khi họ biết họ bị bệnh nan y không thể cứu chữa… tôi có thái độ nào dành cho họ? Tôi có tế nhị trước nỗi khổ đau của họ không? tôi có chia sẻ sự tuyệt vọng của họ không? Dù không làm được gì cho họ, nhưng tôi có thể cầu nguyện hoặc thăm viếng họ được không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con là người lữ hành của niềm hy vọng, xin cho con có một trái tim nhạy bén với những khổ đau của người thân cận, để con có thể “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).
(Trích từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Niềm Hy Vọng Kitô Giáo; chuyển ngữ Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.)